Cách đọc lá số tử vi là một trong những từ khóa được tìm kiếm nhiều nhất trên google về chủ đề Cách đọc lá số tử vi. Trong bài viết này, xemngaytot.vn sẽ viết bài Hướng dẫn Cách đọc lá số tử vi mới nhất 2020
Table of Contents
1. Tương quan giữa hành của bản Mệnh và hành của Cục
Cục có nghĩa là hướng dẫn cục, hay còn gọi là cuộc, là cái thế cuộc mà ta đang sống – hay nói đúng hơn chính là cái môi sinh mà bản mệnh ta đã ngụp lặn trong đó.
a. Hành Cục sinh Mệnh
Thí dụ: Mệnh Thổ, Hỏa Lục Cục, Hỏa sinh Thổ, người được hoàn cảnh ưu đãi, để gặp may may mắn, để thuận tiện.
b. Mệnh Cục tương hòa
Thí dụ: Thổ Mệnh, Thổ ngũ Cục: người để hòa mình với hoàn cảnh, với đời sống bên ngoài.
c. Mệnh sinh Cục
Thí dụ: Thổ mệnh, Kim tứ cục: thổ sinh kim, người phải sinh cho môi sinh tức là vất vả, hay làm lợi cho thiên hạ.
d. Mệnh khắc Cục
Thí dụ: Thổ Mệnh, Thủy nhị Cục, Thổ khắc thủy, cuộc đời có nhiều trở ngại, hay làm hỏng đại sự, thành công trong nghị lực.
e. Cục khắc Mệnh
Thí dụ: Thổ Mệnh, Mộc tam Cục Mộc Khắc Thổ: đã thương, người hay bị môi sinh k phù hợp với mình, sự thành công nếu có đòi hỏi phải trải qua gian khổ.
2. Tương quan giữa Can và Chi của năm sinh
Can là Thiên Can, Chi là Địa Chi – Can Chi hòa hợp với nhau giống như sự giao hòa của trời đất, như 1 cây gồm 2 phần nguồn và ngọn.
a. Can Chi Tương Hòa
Thí dụ: Giáp Dần, Mộc, Dần mộc là người sinh ra từ họ có căn bản vững chãi có quá đủ mức độ để đạt được cái mình đã có.
b. Chi sinh Can
Thí dụ: Ất Hợi: Hợi thủy sinh Ất mộc do may mắn mà sự phát triển chứ thực lực, mức độ chưa đạt được đến mức độ ấy. cuộc sống họ là một chuỗi dài may mắn tiếp nhau để có từ thành đạt này đến thành công khác.
c. Can sinh Chi
Thí dụ: Canh Tý, canh kim sinh tý thủy người được trời discount để làm việc, vừa có mức độ vừa gặp may thuận lợi để mang đến thành đạt cách đơn giản.
d. Can khắc Chi
Thí dụ: Canh Dần: canh kim khắc dần mộc người hay gặp nhiều nghịch cảnh dễ chuẩn bị làm đổ vỡ sự nghiệp, ở những mẫu người này cần đòi hỏi họ phải có 1 lá số với các sao đi đúng bộ thật tốt mới mong nên danh phận nhưng cũng luôn luôn trải qua nhiều nỗi thăng trầm.
e. Chi khắc Can
Thí dụ: Ất Dậu: Dậu kim khắc Ất mộc thành công trong chông gai, sự nghiệp hay bị gẫy đổ lung tung để rồi lại thiết lập lại. Nói tổng kết thiếu may mắn.
3. Đem hành của bản mệnh so sánh với hành của 12 cung số
Ðể biết sự sinh không giống giữa mình với những người liên hệ, bản mệnh là ta, cung an mệnh là nhà, là cái mà bao quản cho ta, các sao ví như đồ đạc, tiện nghi mà ta phải xử dụng, nếu tương sinh hoặc đồng hành, thời tốt mà làm lợi cho ta, nếu bị khắc thời bất lợi. Nếu bản mệnh tương hòa hay tương sinh với cung bản mệnh, cung an mệnh ở tại Dậu là kim khắc mộc. Thì đoán tìm đến các sao thủ và chiếu xem có sao nào đồng hành với bản mệnh k rồi lại thấy nếu sinh vào giờ kim xà thiết tỏa nữa thì thật là chết non chẳng sai mà vừa mới chết non thì các cung liên hệ chẳng còn gì để bàn nữa.
vì thế phú tử vi mới có câu:
Ðào Hồng ngộ kiếp k đồng thủ
Xá bàn chi bần lũ yểu vong.
Thí dụ như lá số: Quí Dậu tháng 5 ngày 30 giờ Sửu – Âm Nữ kim mệnh, Hỏa cục, Mệnh lập ở Ngọ. Cung Ngọ là hỏa khắc mệnh kim, lại có Đào, Hồng gặp không Kiếp nên vừa mới chết từ lúc 3 tuổi.
Sau khi đã so sánh với cung mệnh rồi, thì lần view đến 11 cung kế tiếp để xem sự khắc hợp thế nào?
Thí dụ: người có Mệnh Mộc, cung Mệnh ở Dần cũng là hành Mộc, giống như vậy:
Phụ Mẫu nào ở Mão Mộc là tương hòa, con người giữ được chữ hiếu và cũng được cha mẹ yếu thương, Phúc Đức ở Thìn Thổ là khắc (mệnh Mộc khắc Thổ) là k tìm được sự hướng dẫn của họ hàng và chính mình cũng k tìm thấy sự an ủi, thoải mái đối với họ hàng.
Ðiền, Quan ở Tỵ là Hỏa, Mộc sinh Hỏa cho nên sẽ vất vả với công danh, với nhà cửa.
Nô ở Mùi, Tài ở Tuất, Bào ở Sửu đều thuộc Thổ cả, ta cứ bàn luận như ở cung Phúc Ðức – nghĩa là phải vất vả với bạn bè, anh em và tiền nong vì Mộc khắc Thổ. Ách ở bất cứ đâu là Kim khắc Mệnh Mộc có nghĩa là mỗi khi bị bệnh tật hay tai nạn thì khó mà tránh được dễ dàng.
Cung Di ở Thân là kim khắc mộc: nghĩa là đứng trước một thị trường người này hay bị ở vào tư thế lép vế dù rằng có khi mình hơn họ về phương diện nào đó.
Tử và Thê ở Hợi và Tý thuộc thủy sinh cho mệnh ở Dần, nếu lập gia đình, có con cái, thì cuộc đời sẽ thấy thoải mái hơn và nếp sống trong gia đình với vợ con cũng đặt được sự yêu thương thuận thảo.
giống như trên là nguyên tắc và thí dụ, đối với các trường hợp khác cũng vậy cứ dùng ngũ hành sinh khắc của mệnh và 12 cùng mà suy, hễ khắc thì k hợp, tương hòa hay sinh thì được sự phù trợ, tùy theo cung sinh hay khắc.
Xem thêm: Tử vi 12 cung hoàng đạo mới nhất 2020
4. Đặc tính ngũ hành và vị trí miếu, hãm của các sao
Để xếp hạng mẹo cục được hướng cho mỗi người, nhất là 14 chính tinh và các trung tinh. Hiểu rõ tính chất của mỗi sao, các sao đi ntn là đúng bộ, có phá lẫn nhau k, các sao Thủ và chiếu mệnh có đồng hành với bản mệnh không?
Thí dụ: bộ Nhật Nguyệt cần có Ðào Hồng Xương Khúc, bộ Tử Phù Vũ Tướng cần Tả, Hữu, Tam Hóa, bộ Sát Phá Tham cần Lục Sát Tinh đắc địa, bộ Cơ Nguyệt Ðồng Lương cần Tam Hóa, Quang Quý, Thai Tọa, phá của các hướng dẫn, nhưng xin quí đọc giả lưu ý phần tính chất các sao là một trong những thành phần quan trọng nhất để đoán tử vi được chính xác, nó cũng là một nguyên nhân để gây hứng khởi cho người đọc và được xem tử vi.
Một người có số dù các sao đang đi đúng bộ nhưng k có chính tinh đồng hành với mệnh thì cũng chẳng tốt gì, dù mệnh có chính tinh hay trung tinh đi đúng bộ, lại có chính tinh cùng tiến làm lòng cốt, nhưng lại gặp phá cách thì cũng vất đi mà thôi.
Thí dụ: Tử Phủ Vũ Tướng Hội Tam Hóa, Tả Hữu, nhưng lại gặp cả k Kiếp, là phương pháp để ngộ hung đồ. Lúc ấy Tả Hữu sẽ phối hợp bè vừa mới với không Kiếp và Quyền, Lộc lúc ấy chính là cái mồi để cho lũ hung đồ không Kiếp sử dụng mớ bòng bong cho mình.
Có thuộc rõ thuộc tính của từng sao thì mình mới bàn luận được nhiều điều dị biệt trong lá số, mới nắm được cái lý biến hóa vô cùng của Tử Vi, tại sao cũng số giống như vậy mà người này thế này người kia thế kia. vì sao theo sách thường thì Ðào Hồng Nhật Nguyệt là thi đỗ mà nay người ấy lại chẳng đậu, chẳng hóa ra các người đi đầu sai cả hay sao, nhưng nếu xét cho kỹ thì mới thấy được cái đã phá đi mất tính chất tốt đẹp ấy. Nói tóm lại, gặp sao tốt phải nhìn thấy ngũ hành để mình có được hưởng hay không? Rồi xem có bị phá cách không? Gặp hung tinh nhìn thấy có đắc địa không? toàn bộ các bàng tinh (sao nhỏ) có nhập bộ không? Có phù trợ đắc lực hay hợp với bộ chính tinh của mình không? Có nhiều người đã cho rằng môn Tử Vi cần đơn giản hơn, bỏ bớt các sao nhỏ đi k cần sử dụng tới, nói giống như thế thì các bậc tôn sư ngày xưa lập và theo môn Tử Vi lại sử dụng thừa sao? Sao các cụ k bỏ bớt mà phải chờ đến lượt mình. Sự thật, nếu thuộc kỹ, các thuộc tính cả các sao nhỏ mới tìm thấy các vi diệu, cái lý thú của Tử Vi.
Thí dụ: như sao Phượng Các và Giải Thần luôn luôn đi với nhau, có người bảo sao k bỏ bớt một sao mà lại phải để cả hai, thực ra vì cái lý khi tiểu hạn gặp Phượng Các tất có ốm đau nặng, nên Giải Thần phải luôn luôn đi kèm để giải đi cái hung hãn của Phượng Các. Lại giống như Thiên Riêu, Thiên Y lúc nào cũng đồng cung vì lấy lý rằng: thầy thuốc mãi mãi phải biết cả Y, Dược. Luôn bào chế, nhưng cho dù thế sự ngày này chuyển biến đã phân ra sử dụng Y, Nha, Dược hỏi về cách dùng thuốc. Chính là thuộc tính Thiên Y vậy.
Những suy luân tiếp theo và những kinh nghiệm về hợp cách và phá phương pháp sẽ được trình bày ở mục Tử Vi vấn đáp.
5. Vị trí các sao với 12 cung
Sau khi vừa mới xem đến ngũ hành, đắc tinh miếu, hãm. Bộ phương pháp các chính tinh hợp nhau, phá hướng dẫn và các sao Phù trợ lại cần phải quan tâm lại một lần nữa xem vị trí các sao nằm trên 12 cung số có đúng với các sao nằm trên 12 cung số, có đúng với thuộc tính của nó không? Tài tinh phải cư Tài Bạch, Phúc Tinh phải cư Phúc Ðức, Quyền tinh phải ở Quan lộc, Uy Dũng chỉ tinh nên ở mệnh với nam nhân, còn nữ nhân mà có Uy Dũng tinh thủ chiếu mệnh là phá phương pháp, cuộc đời sẽ cô đơn vất vả, và có nhiều oan trái dù có nhiều cát tinh phù trợ sao tuy đi đúng bộ, đắc địa nhưng nằm nghịch vị trí thì cũng k tốt, ví giống như Phá chẳng nên cư ở Nô Bộc, Thê Thiếp, Tài Tinh là Lộc Tồn, Hỏa Lộc nên tránh xa cung Tật Ách, các sao cứu giải cần đóng ở Ách, Phúc tinh nếu đóng ở Phúc Ðức thì tốt hơn các cung khác.
6. Vị trí cung Mệnh với Thái Tuế, thứ đến xem cung Mệnh nằm ở nơi nào với vòng Thái Tuế
a. Nếu mệnh nằm trong tam hợp tuổi
Thí dụ người tuổi Dần có mệnh lập ở Dần, Ngọ hay Tuất tức là vị trí Thái Tuế, Quan Phủ, Bạch Hổ tại sao Thái Tuế an theo năm sinh, sinh năm nào Thái Tuế cư cung có tên của năm ấy; tức là loại người luôn luôn tự sang chảnh cho mình lấy 1 tinh thần trách nhiệm, hay can dự vào những chuyện bất bình, gánh vác việc người, có lòng hào hiệp, chính vì vậy mà Phú ma Thị có câu “Thân cư Thái Tuế dữ nhân qua hợp”, Thân đây chính là Thân Mệnh vậy, các cổ thư khi bàn đến thuộc tính của Thái Tuế đều cho giống như một cái gì không tốt đẹp lắm; nào là đa chiêu thị phi khẩu thiệt, ít thiện cảm, kiêu kỳ luận chính vì cái lý sự đời nhiều cảnh trái ngang, mà đã là chính nhân quân tử thì làm sao để lại hòa mình với sói lang được, nên phải đứng riêng, ra tay nghĩa hiệp nên hay bị thiên hạ gây ác cảm, cái thuộc tính của Thái tuế giống như vậy vì thế bao chiều xung quanh mãi mãi có Long Phượng Cái Hổ, là tứ linh phục châu – bởi vậy người Thái Tuế k cần Tam hóa, cũng vẫn phong lưu, luôn luôn được người đời khi ghét nhưng luôn luôn phải nể. Vì ghét đây vẫn chỉ là ghét vì thói thường, vì sự can thiệp của Thái Tuế mà cản trở việc làm mờ của họ. Nhưng người Thái Tuế vẫn đứng trên lẽ phải, do vậy mà người có Thái Tuế thường hay tự hào, đôi khi kiêu ở ngầm trong chính bản thân họ, trong tâm hay khinh thường đối tượng. Sách nói Thái tuế khinh người quả là k sai.
Khi Mệnh có Thái Tuế, tức đi Phu mẫu Phải ở thế tam hợp với Thiên k, có nghĩa là diễn ra từ sinh mình ra thì công việc, sự nghiệp của cha mẹ đã trên đà xuống dốc nếu k mong muốn nói là suy sụp.
b. Nếu mệnh nằm trong tam hợp lấn tuổi
Thí dụ: tuổi dần ngọ tuất mà mệnh nằm ở 1 trong 3 cung Hợi Mão Mùi, tức là ở thế lấn và luôn luôn có Thiên không, vì Thiên k an ở đằng trước theo chiều thuận (chiều kim đồng hồ), trước Thái tuế 1 cung, ở đây lại chia làm 3 trường hợp:
- Thiên không ở tứ chính: tý, ngọ, mão, dậu tức là người khôn ngoan, lấn lướt, luôn luôn phải hơn người mới chịu, sắc sảo – nếu tại Mệnh thì đó là tư tưởng nhưng nếu tại Thân thì sự lấn lướt mà tục ngữ Việt Nam gọi là “khôn ăn người” lại tỏ ra bằng hành động.
- Thiên k ở thế tứ mộ: Thìn, Tuất, Sửu, Mùi. Ðây là vị trí Thiên không hoạt động mãnh liệt nhất, phá tán nhất, gây nhiều đổ vỡ nhất, vì Thiên không là hành Hỏa sinh cho cung Thổ, tức là người hay thích đạp đổ tất cả những gì có từ trước để xây dựng lại theo ý của mình, loại người nguy hiểm, ác nếu có nhiều hung tinh gây bè kết đảng xúi giục.
- Thiên k ở thế tứ sinh: Dần, Thân, Tỵ, Hợi ở đây Thiên không có Hồng Loan đi kèm, k là sắc sắc k không, là vạn sự giai không Hồng Loan ngoài các ý nghĩa không giống còn có ý nghĩa tương cho của chúa, cửa thiên đường – như ngầm nói lên con người có Thiên không ở tứ sinh vừa mới ngộ được chữ k ở đời mình, khéo tu thì tránh được phiền não.
- Nhưng dù ở vị trí nào thì bản chất Thiên không vẫn là vạn sự giai không, lo toan, khôn ngoan cho lắm thì kết quả sau cùng cũng luôn luôn là chữ k. Chỉ có những chân tu, nhưng người lựa chọn theo cửa không thì mới được thoải mái vì không có thì k mất. Ví như kẻ cướp đi quét tiền tài 1 người túi rỗng thì phỏng có được gì, mà người bị trộm kia thì có gì để mất, nhưng đáng tiếc thay, trên đời này vòng danh lợi luẩn quẩn mấy ai vừa mới ngộ được chữ “Không” ấy.
c. Mệnh ở Tam Hợp: Tang Môn, Ðiếu Khách, Tuế Phá tức là lấn với cung tuổi 2, hay lùi sau 2 cung
Ðây là loại người hay bất mãn, than vãn để đi đến đối lập, cuộc đời hay gặp nghịch cảnh để khơi nỗi niềm bất mãn lên cao nhưng nếu gặp Thiên Mã cùng tiến bản mệnh thì lại giúp cho họ có một nghị lực vững vàng để chuẩn bị vượt qua mọi khó khăn tiến đến sự phát triển.
d. Mệnh ở thế lùi với cung tuổi
Tức là mệnh 6 cung sau cung tuổi, thí dụ tuổi dần ngọ tuất có mệnh ở tỵ dậu sửu, với vòng Thái Tuế là: Trực phù, Thiếu âm, Long Ðức là loại người hiền từ căn bản, hay nhịn k hơn thua, chó sủa mặc chó, đường ta ta cứ di, nhưng hành động lại vụng về chuyên đào giếng cho thiên hạ uống nước.
Nếu mệnh ở thế lùi cung tuổi thì Phu mẫu lại thế Thái Tuế và có Long Phượng Cái Hổ, như thế là từ khi sinh ra mình, cha mẹ sẽ ăn nên sử dụng ra sự nghiệp thăng tiến.
Ðến đây, xin kính cẩn tri ơn cụ Thiên Lương, nhưng đa dạng việc triển khai vòng Thái Tuế và các kinh nghiệm có tính cách nghiệm lý của cụ về Tử Vi, đã gây một tiếng vang chấn động trong làng Tử Vi mà các cổ thư hay các cụ tiền bối của ta vì hữu ý hay vô tình không nói đến. Cụ vừa mới xây dựng ra, đã chứng minh, đã xây dựng thành đạt Tử Vi là cả một nguyên lý học, dạy con người ở đời phải sống thế nào cho được thoải mái, chứ không phải chỉ thu hẹp Tử Vi như một môn bói toán, với những định luật bắt buộc có tính phương pháp cố định, như những ai kia hằng quan điểm.
7. xem cung nhị hợp
CÁC CUNG NHỊ HỢP GỒM CÓ:
- Tý hợp Sửu
- Dần hợp Hợi
- Mão hợp Tuất
- Thìn hợp Dậu
- Ngọ hợp Mùi
- Tỵ hợp Thân
Nhưng cần lưu ý thế nhị hợp giữa 2 cung sinh xuất, hay sinh nhập, mong muốn biết cung nào sinh xuất hay sinh nhập cho cung nào cần biết thế tam hợp và hành của tam hợp.
- Tam Hợp: Dần Ngọ Tuất thuộc Hỏa
- Tam Hợp: Thân, Tý, Thìn thuộc Thủy
- Tam Hợp: Hợi, Mão, Mùi thuộc Mộc
- Tam Hợp: Tỵ, Dậu, Sửu thuộc Kim.
giống như thế: 4 thế tam hợp chỉ có bốn hành Hỏa, Thủy, Mộc, Kim còn hành Thổ đi đâu mất? Trong dịch học có nói Thổ là trung ương, ứng với số 5, còn gọi là Ngũ Trung trong ngũ hành Kim Thủy Mộc Hỏa Thổ thì hành Thổ là chính do đó Tử Vi, Thiên Phủ là 2 sao đứng đầu của 2 nhóm chính tinh đều thuộc Thổ – ở đây ta thấy các Tam hợp Dần Ngọ Tuất tuy thuộc hành Hỏa, nhưng trong đó đang có Tuất Thổ, Thân Tý, Mùi thuộc Mộc có Mùi Thổ, Tỵ Dậu Sửu thuộc Kim có Sửu Thổ.
Ðem hành của Tam Hợp so sánh với thế nhị hợp ta có:
- Thân Tý Thìn: hành Thủy được Tỵ Dậu, Sửu hành Kim sinh nhập, hay Tỵ Dậu Sửu nhị hợp và sinh xuất Thân, Tý, Thìn.
- Dần, Ngọ, Tuất, hành Hóa được Hợi, Mão, Mùi sinh nhập, hay Hợi, Mão, Mùi sinh Dần, Ngọ, Tuất.
như vậy, trên lá số có 12 cung, có 6 cung được sinh nhập và 6 cung sinh xuất:
- 6 cung sinh nhập là: Dần, Ngọ, Tuất, Thân, Tý, Thìn.
- 6 cung sinh xuất là: Tỵ Dậu, Sửu, Hợi, Mão, Mùi.
Ðể cho dễ nhớ hơn, trong thế nhị hợp của 12 cung thì 6 cung dương là sinh nhập, còn lại 6 cung âm là sinh xuất.
Ứng dụng:
- Nếu mệnh nằm ở cung âm là sinh xuất tức là người hào sảng, phóng khoáng dễ tha thứ, rồi nhìn thấy đến cung nhi hợp là cung nào, tức là người hay lo toan yêu thương cho đối tượng thuộc cung ấy.Thí dụ: mệnh ở Sửu- giống như thế Tý là cung huynh đệ cung mệnh nhị hợp và sinh xuất cho huynh đệ tức là người hết lòng thương yêu, hy sinh lợi ích của mình cho anh chị em.
- Nếu mệnh nằm ở cung dương là thế sinh nhập tức là ở thế thu vào, thế hưởng lợi, là người kỹ lưỡng sử dụng việc gì cũng suy xét, tính toán cẩn thận. Lại xem đến cung nhị hợp là cung thuộc gắn kết nào, thì người ấy (bản mệnh) nhận được sự bao dung giúp đỡ che chở của đối tượng nhị hợp ấy.Thí dụ: mệnh ở Thìn, nhị hợp và được nó ở Dậu sinh nhập cho mệnh giống như thế là người có cuộc sống gắn liền với bè bạn, luôn luôn được bạn hướng dẫn, tóm lại số nhờ bạn.
Các cung không giống cũng luận giải giống như vậy. Cung an Thân cũng luận giải như thế vì Thân ở đây chính là cái ta vậy. Thứ đến luân đến nguyên nhân sao của cung nhị hợp: khi coi cung nhị hợp phải để ý xem có chính tinh nhị hợp, phải chú ý nhìn thấy có chính tính nhị hợp hay không?
Nếu có mới là bảo đảm nhị hợp còn nếu k chỉ là hư vị mà thôi. Thí dụ: Tử vi ở cung Ngọ (dương) nhị hợp với cung Mùi (âm) nếu get lý âm dương mà suy thì âm phò dương tức Mùi sinh Ngọ – nhưng hễ cứ Tử Vi cư Ngọ thì cung Mùi bao giờ cũng vô chính diệu mà vừa mới vô chính hiệu thì lấy gì kết đôi với Tử Vi đây? giống như thế thì cung Ngọ k thể hưởng được các sao ở cung Mùi.
Xem thêm: Tổng quan Tử vi 12 con giáp năm 2020 mới nhất hiện nay
8. Xem cung xung chiếu
như thế nào thì hưởng thế xung chiếu? Cung Thiên Di mãi mãi ở thế xung chiếu với cung Mệnh tức là thế đối nghịch với mình, sách xưa nói Thiên Di là ra ngoài, phải hiểu rằng Thiên Di chính đối phương của mình, do vậy mới có câu:
Ðối phương hung đương đầu ác bổng.
Ðối phương cát ngưỡng diện xung phong.
Nếu cung Thiên di khắc cung Mệnh tất không được hưởng cung Thiên Di, mà còn xấu rứa là không giống, nếu cung đi và tam hợp của đi có nhiều hung sát tinh hội họp.
Thí dụ: người có mệnh lập ở Dần, Thiên di ở Thân mà tam hợp Thân Tý, Thìn lại có sát tinh, thì khi ra đời hay bị thua kém. Chỉ được hưởng cung Thiên Di khi cung mệnh khắc cung di, đây chính là lúc vận dụng coi chính điệu xung chiếu như chính diệu tọa thủ so với cung vô chinh diệu. Thí dụ: người mệnh lập ở Thân có Thiên Di ở Dần, Thân khắc Dần nên mới lôi kéo được các sao ở cung Dần sang, coi giống như ở thế bị khắc thì đã bị khắc rồi thì còn quét của đối phương làm sao được?
9. Phương pháp cuộc tốt xấu của các cung liên hệ
Phải chú ý Thân, Mệnh, Tài, Quan có bị Tuần Triệt xâm phạm không? Tật ách có được Tuần, Triệt hay các sao cứu giải giống như Hoa Khoa cư ở đấy không?
Sau khi vừa mới biết được tổng quát cuộc sống và các cung liên hệ như Bào, Thê, Tử.. Thì coi đến hạn.
10. Mẹo coi hạn
Trong lá số Tử Vi có 2 loại hạn. Tiếng hạn đây chỉ có nghĩa giống như một khoảng thời gian có giới hạn mà trong đó mình sẽ gặp hay được hướng những gì chứ không hề hạn đây là tai nạn.
- Ðại hạn: khoảng chừng 10 năm.
- Tiểu hạn: khoảng 1 năm.
A. Ðại Hạn
đầu tiên phải nhìn thấy yếu tố đại cuộc, tổng quát xem đại hạn ấy có thuận lợi cho mình không? Bằng hướng dẫn dùng tam hợp tuổi của mình so sánh với hành tam hợp của từng đại hạn để nhìn thấy xung khắc thế nào?
- Ðược tương hòa: tức là vận đáo Thái Tuế đắc Long Phượng Cái Hổ- Nếu gặp nhiều cát tinh thủ chiếu, đã gặp tai nạn thì cũng được cứu giải mà qua khỏi
– Nếu gặp nhiều hung tinh phá cách mát mặt với đời.
Thí dụ giống như người tuổi Dần, Ngọ, Tuất, đại hạn 10 năm đến cung Dần, Ngọ, Tuất.
- Ðược tương sinh: hành của tam hợp, đại hạn.. Sinh hành của tuổi, thì đủ: tuổi Dần, Ngọ, Tuất, Đại hạn đến cung Hợi, Mão, Mùi (mộc sinh Hỏa) được thuận nhập có nhiều thuận lợi may mắn, thể trạng tốt.
- Tam Hợp của tuổi khắc Tam hợp đại hạnThí dụ: Dần, Ngọ, Tuất là Hỏa đáo vận Tỵ, Dậu, Sửu là Kim khắc xuất, tức là mình đi khắc người đọc, vất vả không tốt.
- Tam Hợp đại hạn khắc tam hợp tuổiThí dụ: tuổi Dần Ngọ, Tuất đại vận đến cung Thân, Tý, Thìn là Thủy khắc Hỏa, là khắc nhập tức là bị người ta khắc mình, rất xấu, dù các sao trong Ðại Hạn có tốt mấy đi nữa thì cũng bị giảm đi rất nhiều.
Sau khi đã xem đến Ngũ Hành Sinh Khắc để biết trong đại hạn 10 năm ấy, có được thuận tiện hay không, phải chú ý đến các sao thủ mệnh thuộc bộ nào, có hợp bộ với các sao trong đại hạn hay là bị các sao của hạn làm phá cách đi. Thí dụ: mệnh Nhật Nguyệt tối kỵ hạn gặp hình Kỵ, mệnh Thất Sát kỵ hạn gặp Kình Ðà, tối độc mệnh có Lục Sát Tinh, hạn lại gặp Ðại hao, Phá quân như trên chỉ là thí dụ điển ảnh, nhiều phương pháp, nhiều sao phá nhau đang được trình bày trong bất cứ các sách Tử Vi nào cũng có, nhưng truy nguyên cũng suy từ tính chất các sao mà ra, ta cứ học kỹ tính chất các sao mà ra, ta cứ học kỹ thuộc tính các sao nghiền ngẫm, sẽ tìm được sự sinh khắc chế hóa thật là kỳ thú, nhiều khi thấy tốt đấy mà chẳng phải là vậy, Nhìn phớt thấy toàn sao tốt, nhưng chỉ một sao nhỏ cũng làm cho phá hướng dẫn đi, tỷ giống như có người con gái mệnh có Ðào hoa ngộ Thiên k, hình, Riêu mà sao không lẳng lơ dâm đãng, lại thật là đúng đắn, vì có sao Nguyệt Ðức ở đấy, sao nãy hóa giải được tính hoa nguỵêt của đào hồng, hay người mệnh Hỏa mà hạn gặp sao Thủy thì k những chẳng được hưởng mà còn đưa họa nữa là khác. Tóm lại: các sao trong hạn phải hợp bộ với bản mệnh và hợp bộ với bản mệnh và hợp hành với mệnh của mình thì mới được hưởng, rồi xem lại đến hành của tam hợp đại hạn ấy mình được sinh khắc thế nào mà chế hóa đi cho tinh tường của Tử Vi cũng là chỗ này vậy.
Khi nhìn thấy đại hạn nên quan tâm đến các sao trong hạn, tuy hợp bộ nhưng tính chất có khác biệt với các sao ở mệnh không nếu có thì người ấy đến đại hạn đó sẽ đổi nghề, thí dụ: người mà các sao thủ mệnh là văn tinh giống như Xương Khúc Khôi Viêt.. Nhưng đến Ðại Hạn lại gặp võ hướng dẫn như Binh ảnh Tướng Ấn, Sát Phá Tham tức là người ấy sẽ đổi văn ra võ, lại như người đã là võ mẹo đến đại hạn gặp toàn văn tinh, quí tinh nhưng sao an nhàn thì quyết là đổi võ ra văn, hay một người có số thầy thuốc nhưng đến đại hạn lại gặp Kình đang đắc địa. Các sao mồm mép giống như Cựu cơ và các Tài tinh, mà không gặp các Quý Tinh như Quan Phúc, Quang Quí, thì đại hạn ấy sẽ đổi nghề thầy thuốc ra thương mại.
Các trường hợp khác cũng vậy cứ tính chất các sao mà suy. Ở đây tôi chỉ xin phép để nhắc lại với quý người đọc cái kỳ thú do sự nghiệm lý ở Tử Vi mà thôi cái Dịch học của Á Ðông ta biến hóa vô cùng dù viết cho có thiên kinh vạn quyển cũng bất tận nhưng quy lại cũng chỉ có một quy tắc là Âm Dương, Ngũ Hành sinh khắc chế hóa nên người học Tử Vi cũng vậy, cứ nghiền ngẫm cho kỹ tính chất các sao và đặc tính của mỗi cung số là nắm được chìa kiềm hãm, đi từ nguồn đi lên ta sẽ k bị lạc vào rừng, sở dĩ có trường hợp “a diêu” tử vi là vì có nhiều người khi cầm một cuốn sách chỉ muốn đoán ngay được cái vận trực tuyến của con người, nên chỉ lật phần giải thích mã k nhìn thấy kỹ những quy tắc, có biết đâu phần phụ cũng giống như giải thích chỉ là những trường hợp điển hình tổng quát để giúp ta theo đó mà biến hóa cái cần bàn ra thêm nữa.
B. Tiểu Hạn
Tiểu hạn là những gì xảy ra trong 1 năm, đến với con người, trước khi đi vào thuộc tính các sao trong cung Tiểu hạn, nên lưu ý đến xung khác với tuổi của mình không, thí dụ như tuổi Canh Dần đến năm Bính Thân, Thiên Can là Bính Hỏa khắc Canh Kim, Ðịa Chi là Thân Kim khắc Dần Mộc. như vậy gọi là năm Thiên khắc Ðịa Xung, độc lắm, thế nào cũng có một vài rắc rối xảy ra. Dù gặp nhiều sao tốt cũng bị giảm bớt đi, nếu có nhiều sao xấu thì lại càng hung bạo.
- nhìn thấy đến hành của năm tiểu hạn là hành gì, sinh khắc với bản mệnh thế vững hay không? Thí dụ: năm nay Tân Dậu là Hành Mộc, sẽ Thiên Khắc địa xung với người tuổi Ất Mão, và toàn bộ mọi người tuổi Mão đối với năm nay đều là năm xung, làm ăn sẽ không khá và có khi là còn gặp tai nạn nữa, vì là năm Mộc do đó tốt cho những có mệnh Mộc hay Hỏa, vất vả cho mệnh Thủy lao đao, bất lợi cho mệnh Thổ.
- Kể đến đem hành của bản mệnh so sánh với hành của cung tiểu hạn để nhìn thấy sự tốt xấu thế nào. Vì đây chính là cái căn bản, cái nguồn, nguyên nhân sao chỉ là cái thân, cái ngọn để đoán tiểu hạn.
Về mục này trong cổ thư về Tử Vi có bài Phú giống như sau:
1. Kim nhân ngộ khảm mệnh tử thương
2. Mộc mệnh lạc hy hữu họa ương.
3. Thủy ngộ càn cung ứng khiến trệ.
4. Hỏa lai đoài thương hảo nan toàn.
5. Thổ khắc đông nam phung chấn tốn
6. Tu phòng nùng huyết cập kinh hoàng.
7. Túng nhiên cát điệu tương phùng chiếu.
8. Vị miễn quan tai náo nhất tràng.
Xin được giải như sau:
- ngưởi mạng Kim mà tiểu hạn đi đến cung Tí là cung Khảm thuộc hành Thủy thì bị thương hại vì bản mệnh kim sinh xuất cho cung Tí là Ðại hải Thủy, giống như thế ắt mệnh sẽ bị suy tàn.
- Người bản mệnh Mộc hạn đi đến cung Ngọ là quẻ Ly hành Dương Hỏa Mệnh Mộc sinh cho cung Ngọ là Lôi Trung Hỏa, tất được sang nhưng để rồi lại tan ra tro bụi, nên không tránh khỏi tai ương họa hại để tổn đến chính mình.
- ngưởi mạng Thủy mà hạn đến cung Dần quẻ Cấn – Hành Thổ là ngưng chi bế tắc – mệnh Thủy bị Thổ khắc vì vậy kiếm vận bị bế tắc – như ngòi lạch bị chận ngưng.
- ngưởi mạng Thủy mà hạn đến cung Dần quẻ cấn – Hành Thổ là ngưng chi bế tắc – mệnh Thủy bị Thổ khắc vì thế kiếm vận bị bế tắc – giống như ngòi lạch bị chận ngưng.
- người mệnh Hỏa hạn đến cung Dậu quẻ đoài thuộc Kim – tức là mệnh Hỏa khắc cung Kim tức là k có chỗ nương thân – vì mình khắc chỗ đứng của mình mà Hỏa khắc Kim thì rồi Hỏa bị sa lầy vì nếu Kim bị khắc sẽ sinh ra Thủy mà khắc trái lại Hỏa. Trong ngũ hành tương khắc chỉ có hành kim là đặc biệt.
- người mệnh Thổ hạn đi đến cung Mão, quẻ chấn, thuộc Mộc, khắc mệnh Thổ, là chỗ đứng khắc mình nặng nhất ở cung Chấn vì chấn là tượng cho lôi đình, sấm sét nên những sự việc k hay xảy đến cho ngưởi mạng Thổ có lưu hàn ở cung Mão, thường xảy ra ngạc nhiên và mãnh liệt.
tất cả trường hợp trên phải đề phòng bệnh tật tai ương và rất cần gặp được Tuần Triệt án ngữ – hay cát tinh hợp chiếu thì mới ra khỏi, nhưng cũng gặp một phen hoảng vía.
Kế đến là quan tâm đến các sao trong cung tiểu hạn, nếu Ðại Hạn đáo cung Thái Tuế làm cho con người được nhẹ bước thang mây bao nhiêu, thì tiểu hạn Thái Tuế lại rườm rà bấy nhiêu thành ra nên cụ Lê Quý Ðôn mới có câu:
Quan phủ Thái Tuế một đoàn
Ðêm ngày chầu chực của công mỏi mòn.
Tiểu hạn Thái Tuế tất có sự thị phi quan tại khẩu thiệt phải liên quan đến chốn công môn. Khi xem tiểu hạn thì get sao của tiểu hạn hòa hợp với nguồn đại hạn và cung mệnh, để xem các bộ sao nhập bộ nhau ra sao mà đoán, tùy theo thuộc tính của nó, sau khi suy ra được tốt xấu thế nào, về phương diện nào thì lại phải chế hóa với các thành phần đang trình bày ở trên xem xấu tốt tới độ nào?
Nhưng điều quan trọng khi đoán hạn, nếu thấy cát tinh cung chiếu phải để ý xem có sao nào làm cho phá hướng dẫn không nếu thấy số xấu quá, gặp toàn hung tinh, hay nghịch lý âm dương ngũ hành thì phải đi tìm Tuần, Triệt và các sao cứu giải xem nằm ở bất cứ đâu, có chiếu vào hạn để cứu khốn phò nguy hay không?
Còn như muốn biết mẹo cuộc của một người thuộc loại như văn đoàn, hay võ phương pháp, thương mại hay tiện nhân, thọ yểu ra sao thì cứ quét tính chất các sao thủ và tam hợp chiếu với mệnh, lại quét ngũ hành của bản mệnh sánh với ngũ hành của chính tinh thủ chiếu rồi chú ý xem có ác sát tinh nhập mệnh không mà đoán, sẽ thấy rõ được cái dự thảo mà Thượng Ðế đang dành cho mình do cái nhân của mình vừa mới gieo từ tiền kiếp, để rồi cho mình tự do chọn lối sống thế nào mà ngay từ cái đời hiện tại vẫn đủ nội lực tu sửa để tránh được những phiền não mà kiếp người trong cõi nhân sinh không mấy ai thoát khỏi.
Nguồn: http://tuvi.cohoc.net/